Tịnh Độ Tông là một nhánh của Phật Giáo Đại Thừa không chỉ phổ biến ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc trên thế giới. Hãy cùng Giác Ngộ Tâm Linh tìm hiểu về Tịnh Độ Tông cũng như 48 lời đại nguyện của Phật A Di Đà – Một tông phái tu tập theo hạnh nguyện của Ngài.
Nội Dung
1. Tịnh Độ Tông là gì?
Tịnh Độ Tông là một nhánh thờ phụng và tuân theo các hạnh nguyện của Đức Phật A Di Đà. Tông này chủ trương dạy đệ tử chuyên tâm niệm Phật để được vãng sanh về Tịnh độ (Tây Phương Cực Lạc). Đây cũng là lý do môn phái này tên là Tịnh Độ Tông.
Đây là pháp môn có đông đảo các Phật tử vì dễ tu, dễ chứng, thích hợp với đại chúng. Bất kỳ một ai kể cả là nam hay nữ, hạng người nào, già trẻ, gái trai, giàu nghèo cũng có thể tu hành được cả. Cách tu tập là niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” dễ mà lại rất nhanh tinh tấn, do đó bất kỳ một ai cũng có thể làm được.
Chính vì thế, từ khi xuất hiện, pháp môn này được đông đảo đệ tử ưa chuộng, lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt Nam chúng ta, Tịnh Độ Tông là nhánh Phật Giáo phổ biến nhất, điều này giải thích vì sao câu Nam Mô A Di Đà Phật trở nên gần gũi và quen thuộc với người dân Việt như thế.
2. Nguồn gốc và quá trình phát triển của Tịnh Độ Tông
2.1. Tịnh Độ Tông tại Trung Quốc
Những kinh sách của Tịnh Độ Tông đã được một tăng sĩ Ấn Độ chuyển dịch sang Hán văn từ rất sớm. Năm 185, Khang Tăng Khải đã đến Trung Quốc và dịch kinh Vô Lượng Thọ – một trong ba bộ kinh cốt lõi của Tịnh Độ Tông thành 2 quyển.
Tiếp đó năm 401, ngài Cưu-ma-la-thập đến Trung Quốc và tham gia dịch kinh điển sang Hán văn trong đó có kinh A-di-đà, sau cũng trở thành bộ kinh quan trọng của Tịnh Độ Tông. Đến năm 424 lại có một vị tăng sĩ Ấn Độ khác là ngài Cương-lương-gia-xá dịch kinh Quán Vô Lượng Thọ sang Tiếng Hán. Như vậy ba bộ kinh căn bản của Tịnh Độ Tông đã được hoàn chỉnh.
Tuy đã đủ ba bộ kinh cơ bản, nhưng phải đợi đến ngài Đạo Xước (ông sinh năm 562, mất năm 645) thì thuyết Tịnh độ mới bắt đầu phát triển rộng rãi hơn. Tiếp nối Ngài Đạo Xước, Tịnh Độ Tông ngày càng được củng cố và hoàn chỉnh bởi ngài Thiện Đạo (613-681) và hình thành một tông phái độc lập. Vì thế, Ngài Thiện Đạo được xem như là vị tổ sư khai sáng Tịnh Độ Tông. Ngài có soạn bộ Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh sớ, nội dung của kinh sớ này là chỉ ra những sai lầm xưa nay về thuyết Tịnh độ, đồng thời giảng rõ những ý nghĩa chân chính và khuyến khích chúng sinh tu theo Tịnh độ.
Về sau, Tịnh Độ Tông phát triển vô cùng mạnh mẽ và nhanh chóng lan rộng ra khắp nơi, nhiều nước trên thế giới. Chính sự phát triển mạnh mẽ này, Tịnh Độ Tông hầu như đã thâm nhập, hòa trộn vào những tông phái khác. Đặc biệt là chủ trương Thiền tịnh song tu vẫn còn phổ biến cho đến tận ngày nay.
2.2. Tịnh Độ Tông tại Nhật Bản
Tịnh Độ Tông được truyền sang Nhật Bản bởi một vị tăng sĩ Ryonin, từ trước năm 1124. Khi ấy, tông này được đặt tên là Yuzu Nembutsu. Ngài Ryonin lấy mình làm gương, niệm Phật mỗi ngày đến hơn 60.000 lần để khuyến khích mọi người. Nhưng khi ấy Tịnh Độ Tông chưa được truyền rộng rãi ở Nhật, nên không được nhiều người tin tưởng. Mãi khi ngài Nguyên Không truyền bá rộng rãi Tịnh Độ thuyết và thành lập được một Tịnh Độ Tông với số môn đồ rất đông.
2.3. Tịnh Độ Tông tại Việt Nam
Tịnh Độ Tông của Việt Nam bắt đầu khi sư Đàm Hoằng đến nước ta vào năm 423. Khi ông đến nước ta, đã ở tại chùa Tiên Sơn, ông tinh tấn hành trì kinh Vô lượng thọ và Quán Vô lượng thọ. Năm 455 sư tự thiêu nhưng không thành vì giữa chừng các đệ tử biết được và dập tắt lửa. Sau đó, khi thôn làng bận rộn vì có lễ hội, cả chùa đều đi Phật sự, ông đã lén đi tự thiêu lần nữa. Khi mọi người biết được đến nơi thì sư đã viên tịch. Hôm đó, dân làng nhìn thấy ông thân có sắc vàng, cưỡi nai vàng, đi nhanh về hướng Tây. Phật tử đã thu nhặt tro xương ông để dựng tháp thờ cúng.
Nguyên nhân là vào thế kỷ V, tại nước ta đang diễn ra một cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt, bởi Phật Giáo quyền năng không còn được tin tưởng của đại chúng nữa. Chính vì thế sự tự thiêu này, cùng với tương truyền về việc dân làng thấy ông bay về Tây Phương là một cách củng cố niềm tin đối với nền tư tưởng Phật giáo quyền năng cũng như Tịnh Độ Tông mà Ngài Đàm Hoằng tu học. Nhờ thế từ thế kỷ thứ V, tư tưởng Tịnh độ đã phát triển mạnh mẽ và trở thành một trào lưu tại nước ta.
Từ thế kỷ XI, Tịnh Độ Tông ngày càng phổ biến rộng rãi, đặc biệt là vào thời của Lý Thánh Tông (1023-1072), ông đã cho tạc tượng Phật A Di Đà độc đáo và xây một ngôi tháp để thờ tại chùa Vạn Phúc. Từ đó về sau, Tịnh Độ Tông đã thực sự trở nên gần gũi trong đời sống tâm linh của người Việt.
Tuy nhiên, quan niệm về Tịnh độ của người Việt Nam vẫn mang điểm đặc thù riêng, dù chịu ảnh hưởng của Trung Hoa hay của Nhật Bản nhưng vẫn có nhiều sự khác biệt.
3. Học thuyết của Tịnh Độ Tông
Thuyết Tịnh Độ nhấn mạnh việc niệm Phật vãng sinh, và điều này được giảng rõ trong các bộ kinh căn bản của Tịnh Độ Tông. Chúng sinh từ vô lượng kiếp đến nay đã tạo nhiều ác nghiệp, chỉ cần một lòng thành tâm, tin vào đức Phật A-di-đà, hết lòng niệm hồng danh ngài thì đều có thể được vãng sinh về thế giới Tây phương Tịnh độ, hay còn gọi là cõi Cực lạc
Học thuyết này được xây dựng dựa vào 48 lời đại nguyện của Phật A-di-đà từ khi ngài còn là một vị Bồ Tát. Nếu có bất cứ chúng sinh nào chỉ cần phát tâm cầu được sinh về cõi thế giới Tây Phương, thành tâm niệm Nam Mô A Di Đà Phật, lúc người ấy lâm chung Ngài sẽ hiện ra trước mặt để tiếp dẫn cho vị ấy được vãng sinh như ước nguyện.
Điểm khác biệt lớn nhất giữa Tịnh Độ Tông với các môn pháp khác là niềm tin tuyệt đối vào tha lực, kết hợp với sự tự lực, tinh tấn của người tu. Nhờ thế nên dù người ấy vẫn còn nhiều ác nghiệp vẫn có thể được vãng sinh. Tuy nhiên khi chúng sinh ấy về cõi Phật cũng đều như nhau, mà tùy theo hạnh nghiệp trước đó sẽ hóa sinh thành một trong chín phẩm. Trong chín phẩm này Hạ phẩm Hạ sinh là thấp nhất đến Thượng phẩm Thượng sinh là cao nhất.
Theo học thuyết của Tịnh Độ Tông chúng sinh vào thời mạt pháp, thường không còn đủ căn lành và trí tuệ như các bậc thánh hiền xa xưa. Do đó, việc tu chứng theo các pháp môn cao siêu khác là cực kỳ khó khăn. Trong khi đó, đệ tử chỉ cần thông qua niệm phật là có thể vãng sanh mà không đòi hỏi nhiều trí tuệ, chỉ cần có đủ quyết tâm và đức tin. Như người muốn mang hòn đá nặng qua sông, tự mình không đủ sức mạnh. Nhưng nếu biết dùng thuyền chở qua lại rất nhẹ nhàng. Chiếc thuyền của đệ tử Tịnh Độ Tông chính là 48 đại nguyện của đức Phật A-di-đà. Phật tử biết nương vào đó thì dù sức nhỏ vẫn có thể làm được việc lớn.
Tuy nhấn mạnh niềm tin vào Đức Phật nhưng Tịnh Độ Tông hoàn toàn không tương phản hay xem nhẹ giáo lý của các tông phái khác. Chính vì điều này, Tịnh Độ Tông dễ dàng thâm nhập vào tất cả các tông phái khác, và việc niệm Phật ngày càng phổ biến ở tất cả các môn pháp.
4. Đức Phật A Di Đà và 48 đại nguyện
Nội dung 48 lời nguyện của Phật A Di Đà rất quan trọng, vì đây là yếu tố sinh khởi lòng tin với Tịnh Độ Tông. Vậy nên, bất kỳ một đệ tử nào tu học theo Tịnh Độ Tông cũng phải nên tìm hiểu. 48 đại nguyện này được ghi chép trong Đại A-di-đà kinh và cả kinh Vô Lượng Thọ. Sai đây Giác Ngộ Tâm Linh xin giới thiệu quý vị 48 lời nguyện theo kinh Đại A-di-đà.
Đại nguyện thứ nhất: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho nhân dân trong cõi nước của ta tránh khỏi ba đường ác: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, cho đến không có các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy… Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ nhì: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho trong cõi nước của ta không có nữ giới. Tất cả chư thiên, loài người cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy… trong vô số thế giới khác, nếu được sinh về cõi nước của ta đều sẽ hóa sinh ra từ hoa sen quý trong hồ nước bằng bảy báu. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta khi muốn ăn liền có trăm vị ngon lạ tự nhiên hiện ra trong bát quý bằng bảy báu. Sau khi ăn xong thì bát ấy tự nhiên biến mất. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ tư: Sau khi ta thành Phật, chúng sinh trong cõi nước của ta khi cần đến y phục thì vừa nghĩ đến liền có ngay đúng như ý muốn, không bao giờ phải cần đến những việc cắt, may, nhuộm, sửa… Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ năm: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho trong cõi nước của ta từ mặt đất lên tận hư không đều có những cung điện lầu gác xinh đẹp, có đủ các hương thơm vi diệu hợp thành. Hương thơm ấy xông khắp các thế giới trong mười phương. Những chúng sinh nào ngửi được mùi hương ấy đều phát tâm tu theo hạnh Phật. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ sáu: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều thương yêu kính trọng lẫn nhau, không có lòng ganh ghét oán giận. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bảy: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều không có các tâm tham lam, sân hận và si mê. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ tám: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều cùng một tâm lành, không nghi ngờ lẫn nhau. Có điều gì vừa muốn nói ra thì tự nhiên đều hiểu được ý nhau. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ chín: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều không nghe biết đến những danh từ chỉ sự bất thiện, huống chi là thật có những điều ấy. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều biết rõ thân thể là hư huyễn, không có tâm tham đắm. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười một: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta tuy có phân ra loài người và chư thiên khác nhau, nhưng đều có hình thể toàn một màu vàng ròng, vẻ mặt đoan chính đẹp đẽ, không ai có những nét xấu xí. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười hai: Sau khi ta thành Phật, ví như chư thiên và loài người trong khắp vô lượng thế giới mười phương, cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy… thảy đều được sinh làm người, đều tu tập chứng quả Thanh văn, Duyên giác, đều tu thiền đạt đến mức nhất tâm, rồi cùng nhau muốn tính đếm tuổi thọ của ta. Tính đếm như vậy trong cả ngàn muôn vạn kiếp cũng không một ai có thể biết được. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười ba: Sau khi ta thành Phật, ví như chư thiên và loài người trong khắp vô lượng thế giới mười phương, cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy… thảy đều được sinh làm người, đều tu tập chứng quả Thanh văn, Duyên giác, đều tu thiền đạt đến mức nhất tâm, rồi cùng nhau muốn tính đếm số chúng sinh trong cõi nước của ta. Tính đếm như vậy trong cả ngàn muôn vạn kiếp cũng không một ai có thể biết được. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười bốn: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều có thọ mạng dài lâu vô số kiếp, không ai có thể tính đếm được. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười lăm: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta thảy đều được thọ hưởng những sự khoái lạc không khác gì các bậc tỳ-kheo đã dứt sạch lậu hoặc. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười sáu: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho chúng sinh trong cõi nước của ta đều trụ nơi địa vị chánh tín, lìa xa mọi tư tưởng điên đảo, phân biệt, các căn đều tịch tĩnh, dừng lắng cho đến lúc đạt được Niết-bàn. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười bảy: Sau khi ta thành Phật, sự thuyết giảng kinh điển và tu hành đạo pháp đều nhiều hơn gấp mười lần so với chư Phật. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười tám: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả chúng sinh trong cõi nước của ta đều rõ biết hết thảy những kiếp quá khứ, biết được mọi sự việc đã xảy ra trong trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ mười chín: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả chúng sinh trong cõi nước của ta đều được thiên nhãn, nhìn thấy khắp trăm ngàn ức na-do-tha thế giới. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả chúng sinh trong cõi nước của ta đều được thiên nhĩ, nghe được tiếng thuyết pháp của trăm ngàn ức na-do-tha chư Phật. Nghe rồi liền có thể nhận lãnh làm theo. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi mốt: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả chúng sinh trong cõi nước của ta đều được tha tâm trí, rõ biết được tâm niệm của hết thảy chúng sinh trong trăm ngàn ức na-do-tha thế giới. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi hai: Sau khi ta thành Phật, nguyện cho tất cả chúng sinh trong cõi nước của ta đều được phép Thần túc, chỉ trong khoảng thời gian của một niệm có thể vượt qua được trăm ngàn ức na-do-tha thế giới. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi ba: Sau khi ta thành Phật, danh hiệu của ta vang truyền khắp vô số thế giới trong mười phương. Hết thảy chư Phật trong các thế giới ấy, mỗi vị đều ở giữa đại chúng mà xưng tán công đức của ta cùng ca ngợi cõi thế giới thù thắng của ta. Hết thảy chư thiên, loài người, cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy… khi nghe được danh hiệu của ta, chỉ cần phát khởi tâm lành mừng vui hoan hỷ, thì hết thảy đều sẽ được sinh về thế giới của ta. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi bốn: Sau khi ta thành Phật, hào quang trên đỉnh đầu của ta chiếu sáng rực rỡ nhiệm mầu, vượt hơn ánh sáng của mặt trời mặt trăng đến trăm ngàn vạn lần. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi lăm: Sau khi ta thành Phật, hào quang của ta chiếu sáng đến khắp những chỗ tối tăm u ám trong vô số cõi thế giới, khiến cho đều sáng rực. Hết thảy chư thiên và loài người, cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy… khi được thấy hào quang của ta rồi thảy đều sinh khởi lòng từ, muốn làm việc thiện, rồi tất cả đều được sinh về thế giới của ta. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi sáu: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài người trong vô số cõi thế giới, cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy… khi được hào quang của ta chiếu vào thân thể liền được thân tâm từ hòa hơn cả chư thiên. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi bảy: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài người trong vô số cõi thế giới, nếu có ai phát tâm Bồ-đề, vâng giữ trai giới, thực hành sáu pháp ba-la-mật, tu các công đức, hết lòng phát nguyện được sinh về thế giới của ta, thì khi người ấy lâm chung ta sẽ cùng với đại chúng hiện đến trước mặt, tiếp dẫn người ấy sinh về thế giới của ta, làm bậc Bồ Tát trụ ở địa vị không còn thối chuyển. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi tám: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài người trong vô số cõi thế giới, nếu có ai được nghe danh hiệu của ta liền thắp hương, dâng hoa, dùng các thứ đèn đuốc, cờ phướn trang nghiêm, cúng dường trai tăng, xây dựng chùa tháp, giữ gìn trai giới thanh tịnh, làm các việc thiện, một lòng nhớ nghĩ đến ta, cho dù chỉ trong một ngày một đêm không gián đoạn, cũng chắc chắn sẽ được sinh về cõi thế giới của ta. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ hai mươi chín: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài người trong vô số cõi thế giới, nếu có ai hết lòng tin tưởng muốn được sinh về cõi thế giới của ta, chỉ cần niệm rõ lên danh hiệu của ta mười tiếng, hết thảy liền được sinh về cõi thế giới của ta, chỉ trừ ra những kẻ phạm vào năm tội nghịch hoặc phỉ báng Chánh pháp. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài người trong vô số cõi thế giới, cho đến các loài trùng bọ biết bò, biết bay, biết động đậy… nếu như trong tiền kiếp đã từng làm các việc ác, nay được nghe danh hiệu của ta liền hết lòng sám hối, quay sang làm thiện, vâng giữ giới luật, thọ trì kinh điển, phát nguyện được sinh về thế giới của ta, thì khi lâm chung liền không bị đọa vào trong ba đường ác, thẳng tắt một đường sinh về thế giới của ta, mọi chỗ mong cầu đều được như ý. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi mốt: Sau khi ta thành Phật, chư thiên và loài người trong vô số cõi thế giới, nếu ai được nghe danh hiệu của ta liền cúi đầu sát đất lễ lạy cung kính, mừng vui tin tưởng phát tâm ưa muốn tu theo hạnh Bồ Tát, liền được hết thảy chư thiên và người đời kính trọng. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi hai: Sau khi ta thành Phật, hết thảy nữ nhân trong vô số cõi thế giới, nếu được nghe danh hiệu của ta liền mừng vui tin tưởng, phát tâm Bồ-đề, sinh lòng chán ghét thân nữ. Sau khi lâm chung liền không còn phải thọ sinh làm thân nữ. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi ba: Sau khi ta thành Phật, những chúng sinh nào sinh về cõi thế giới của ta đều là hàng Bồ Tát Nhất sanh bổ xứ, trừ ra những vị có phát nguyện sinh về những thế giới khác để giáo hóa chúng sinh, tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật liền được tùy ý sinh về phương ấy. Ta sẽ dùng sức oai thần khiến cho vị ấy giáo hóa được hết thảy chúng sinh đều phát khởi lòng tin, tu hạnh Bồ-đề, hạnh Phổ Hiền, hạnh tịch diệt, Phạm hạnh thanh tịnh, hạnh cao trổi nhất, cùng với hết thảy các hạnh lành. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi bốn: Sau khi ta thành Phật, những chúng sinh nào ở thế giới của ta muốn sinh về thế giới khác liền được như ý nguyện nhưng không còn phải đọa vào trong ba đường ác. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi lăm: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong thế giới của ta dùng đủ loại hương hoa, cờ phướn, trân châu, chuỗi ngọc, cùng với đủ mọi thứ phẩm vật cúng dường, muốn hiện đến vô số cõi thế giới để cúng dường chư Phật, liền chỉ trong khoảng thời gian của một bữa ăn có thể hiện đến đủ khắp mọi nơi. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi sáu: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong thế giới của ta nếu muốn dùng đủ mọi thứ phẩm vật cúng dường để cúng dường vô số chư Phật trong mười phương, liền tức thời hiện đến trước các vị Phật ấy với đầy đủ mọi thứ phẩm vật. Cúng dường rồi, ngay trong ngày ấy chưa đến giờ thọ trai đã kịp trở về. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi bảy: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong thế giới của ta thọ trì kinh pháp, tụng đọc, giảng thuyết, liền có đủ biện tài trí huệ. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi tám: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong thế giới của ta có thể giảng thuyết hết thảy các pháp, được biện tài trí huệ không hạn lượng. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ ba mươi chín: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát trong thế giới của ta đều được sức mạnh như lực sĩ Kim cang na-la-diên ở cõi trời, thân thể đều toàn một màu sáng đẹp như vàng tử ma, có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, giảng kinh hành đạo không khác gì chư Phật. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi: Sau khi ta thành Phật, cõi thế giới của ta thanh tịnh soi chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương. Các vị Bồ Tát nếu muốn nhìn vào trong cây quý để thấy được hết thảy những cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh trong khắp mười phương, liền tức thời nhìn thấy hiện ra đầy đủ như trong tấm gương sáng ở ngay trước mặt. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi mốt: Sau khi ta thành Phật, những vị Bồ Tát trong cõi thế giới của ta, dù có ít công đức cũng có thể thấy biết được cây bồ-đề nơi đạo tràng của ta cao đến bốn ngàn do-tuần. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi hai: Sau khi ta thành Phật, hết thảy chư thiên và loài người cùng với vạn vật trong cõi thế giới của ta đều trang nghiêm thanh tịnh, sáng suốt đẹp đẽ, hình dáng và màu sắc đều đặc biệt kỳ diệu, nhiệm mầu tinh tế đến mức không ai có thể nói hết được. Chúng sinh dù có đạt được thiên nhãn cũng không thể phân biệt gọi tên hay tính đếm được hết mọi thứ trong thế giới của ta. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi ba: Sau khi ta thành Phật, hết thảy chúng sinh trong cõi thế giới của ta, tùy theo chí nguyện, nếu muốn nghe pháp liền tức thời được nghe. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi bốn: Sau khi ta thành Phật, hết thảy hàng Bồ Tát hay Thanh văn trong cõi thế giới của ta đều có đủ trí huệ, thần lực, trên đỉnh đầu cũng có hào quang chiếu sáng, tiếng nói phát ra vang rền, lưu loát, giảng kinh hành đạo đều không khác với chư Phật. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi lăm: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát ở những phương khác được nghe danh hiệu của ta đều quy y tinh tấn, đều được phép Tam-muội thanh tịnh giải thoát. Các vị trụ yên nơi phép tam-muội này thì chỉ trong thời gian một ý niệm khởi lên đã có thể cúng dường vô số chư Phật mà vẫn không rời khỏi thiền định. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi sáu: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát ở những phương khác được nghe danh hiệu của ta đều quy y tinh tấn, đều được phép Tam-muội Phổ đẳng, từ đó cho đến khi thành Phật luôn thường được nhìn thấy vô số chư Phật. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi bảy: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát ở những phương khác được nghe danh hiệu của ta đều quy y tinh tấn, liền được ngay địa vị không còn thối chuyển. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
Đại nguyện thứ bốn mươi tám: Sau khi ta thành Phật, các vị Bồ Tát ở những phương khác được nghe danh hiệu của ta đều quy y tinh tấn, liền được ngay các bậc nhẫn nhục từ thứ nhất, thứ hai cho đến thứ ba, đều được phép Tam-muội thanh tịnh giải thoát. Các vị trụ yên nơi phép tam-muội này thì chỉ trong thời gian một ý niệm khởi lên đã có thể cúng dường vô số chư Phật mà vẫn không rời khỏi thiền định. Nếu không được vậy, ta quyết không thành Phật.
5. Kinh điển của Tịnh Độ Tông
Pháp môn Tịnh Độ Tông cũng có kinh điển riêng, những kinh luận này chính là:
- Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác kinh (2 quyển).
- Đại Phật A Di Đà kinh (2 quyển).
- Vô Lượng Thọ kinh (2 quyển).
- Quán Vô Lượng Thọ kinh (2 quyển).
- Phật Thuyết A Di Đà kinh (1 quyển).
- Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ kinh (1 quyển).
- Cổ Âm Thanh Tán Đà La Ni kinh (1 quyển)
- Tịnh Độ Vãng Sinh luận do Bồ tát Thế thân trước tác.
Trong đó, quan trọng nhất của Tịnh Độ Tông vẫn là: Vô Lượng Thọ kinh, Phật Thuyết A Di Đà kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh và Tịnh Độ Vãng Sinh Luận.
Giác Ngộ Tâm Linh vừa giới thiệu bạn đọc về Pháp môn Tịnh Độ Tông vô cùng lợi lạc và phổ biến. Tông phái này hiện tại cũng vô cùng phổ biến ở các quốc gia bao gồm cả Việt Nam bởi sức mạnh thù thắng, vi diệu không thể nghĩ bàn. Chúc cho các bạn đọc được bài viết này sẽ được gieo duyên lành với Phật Giáo.