Tứ Thiền – Bát Định có nghĩa là gì trong Phật Giáo?

Tứ Thiền – Bát Định là những cụm từ hay được những đệ tử tu tập thiền định nhắc đến. Nhưng không nhiều người hiểu về thuật ngữ này, nhất là những người mới tìm hiểu thiền định. Hôm nay Giác Ngộ Tâm Linh sẽ giải thích chi tiết để bạn hiểu rõ hơn về Tứ Thiền hay Tứ Thánh ĐịnhBát Định nhé.

Tứ Thiền - Bát Định có nghĩa là gì trong Phật Giáo?
Tứ Thiền – Bát Định có nghĩa là gì trong Phật Giáo?

1. Tứ Thiền là gì?

Khi thái tử Tất Đạt Đa (Đức Phật Thích Ca Mâu Ni) tại buổi lễ hạ điền ngồi dưới cây Hồng Táo nhập định đã ra đời tứ thiền. Trong quá trình tu tập thiền định, Ngài đã trải qua cảnh giới của tứ thiền. Chính con đường này đã đưa Ngài đến giác ngộ và giúp các đệ tử thấy rõ vai trò quan trọng của thiền định. 

Tứ Thiền hay còn được gọi là Tứ Thánh Định gồm 4 cấp độ của thiền định đó là: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. Người ngồi thiền khi đã nhập định muốn an trú ở mức thiền nào thì cần một khoảng thời gian nhất định để dụng công và ngược lại.

1.1. Sơ thiền

Khi sơ thiền, hành giả ngồi ở tư thế kiết già, lưng thẳng, an trú chánh niệm trước mặt với cơ thể thư giãn, tâm phải thanh tịnh tuyệt đối. Khi nhập thiền ta không cần ép bản thân nhập tâm nhưng cũng không được để tâm lơ là, suy nghĩ chuyện khác. Tâm người thiền phải vắng lặng, thanh tịnh và có khi người thiền còn không biết mình đang còn ý niệm. Điều đó có nghĩa là các hành giả phải dứt hết tất cả những ham muốn của thế gian như Hỷ nộ ái ố. Nhờ tâm cân bằng, không lay động cho nên cảm nhận được niềm vui, sự an lạc chưa từng có.

Một yếu tố quan trọng cần phải chuẩn bị chính là một môi trường yên tĩnh và cách ly với cuộc sống ồn ào bên ngoài. Ngoài ra, sau khi chết nếu vẫn còn giữ được trình độ này thì người ngồi thiền sẽ được vào cõi trời sơ thiền. Trong quá trình sơ thiền, hành giả cũng nên cẩn thận với “Năm chướng ngại”, ngăn cản bản thân mình như tham lam, sân si, hôn trầm, trạo hối và nghi ngờ.

Xem thêm: Nhập Định là gì?

Sơ thiền
Sơ thiền

1.2. Nhị thiền

Người hành giả đã thuần phục mức độ sơ thiền và tâm không quá thỏa mãn trong sơ thiền, hoặc người ấy vì có tâm định tiến triển thì từ từ họ sẽ đạt đến mức độ nhị thiền. Có nghĩa là nếu hành giả đã đầy đủ công đức, thì sẽ nhận được kết quả nhị thiền. Người ở cấp nhị thiền sẽ cảm nhận được toàn thân mình như một dòng nước mát tuôn trào bất tận, như thác suối tuông xuống hay mưa rơi mãi không ngừng. 

Trong nhị thiền, tất cả các ý niệm, tự hào đều biến mất, ta không còn phô trương mà hoàn toàn an ổn trong định sinh hỷ lạc.

Xem thêm: Thiền Vipassana là gì?

1.3. Tam thiền

Nếu hành giả thấy nhị thiền chưa vững chắc, dễ bị hư hoại bởi hỷ, giữ tâm bình thản trước nhị thiền và có tác ý muốn đến với lạc và nhất tâm, xem đấy là cảnh giới cao thượng hơn, dồn toàn bộ tâm ý vào tam thiền thì họ sẽ vượt qua được nhị thiền tiến vào tam thiền. Đây là cấp thứ 3 trong tứ thiền, được Phật miêu tả người thiền đạt tới cảnh giới như một bông hoa sen được nuôi dưỡng, vươn lên từ nước mát lạnh, cho nên chỗ nào của hoa sen cũng ướt lạnh, sung mãn, thấm nhuần.

Điểm khác biệt của tam thiền và nhị thiền là tâm hỷ không còn, niềm vui của người đạt tam thiền sẽ có được sự tự tại, bình an, vượt khỏi cơ thể như bông sen xanh ngập trong nước mát nhưng không hề bị thấm nước, rất hoan hỉ và an lạc. Hành giả đạt được vô thức, kiểm soát tâm hồn mình thật sự thanh tịnh, tất cả những ham muốn, sự ưa hưởng thụ,… đều được kiềm chế. Lúc này, khi hành giả ngồi nhập định, hành giả sẽ không còn nghe thấy những tiếng động, tác nhân ngoại cảnh xung quanh, hoàn toàn an trú trong nội tâm sáng suốt, thanh tịnh của mình.

Tam thiền
Tam thiền

1.4. Tứ thiền

Đây là mức độ thiền cuối cùng, cũng là mức độ sâu nhất, tinh tế nhất trong thiền mà ai khi thiền cũng mong đạt được. Khi bạn đạt cảnh giới này, hành giả có thể đi thẳng vào nhất tâm mà không cần qua giai đoạn sơ thiền, nhị thiền và tam thiền. Lúc này tâm của hành giả hoàn toàn bất động, kiên cố hơn các bậc trước, vô cảm, vô tâm với thế giới bên ngoài. Phật diễn tả đó là tâm trạng thái không lạc, không khổ, xả niệm và thanh tịnh, không chỗ nào không thuần tịnh, trong sáng, giống như người ngồi được tấm vải trắng che phủ toàn thân. Họ từ bỏ cả khổ và hỷ, cả thiện và ác đều không xâm nhập được.

Bốn cấp độ trong tứ thiền đi từ thấp đến cao, cứ mỗi cấp bặc thăng tiến là đang diệt đi các phần thô. Ví dụ như trong sơ thiền có 5 chi phần, chuyến sang nhị thiền thì bỏ được 2 chi (tầmtứ), tam thiền thì bỏ được hỷ, và cuối cùng khi sang tứ thiền, lạc cũng được từ bỏ. Tuy nhiên quá trình đi lên nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào căn cơ, trí tuệ của từng người.

Xem thêm: Tứ Niệm Xứ là gì?

2. Bát Định là gì?

Bát định hay bát thiền là tên gọi tắt của bát thiền định, được chia thành 3 loại chính là định tưởng, định tâm, định thân. Đây là 8 phép định của nhà tu, bao gồm:

  1. Sơ thiền định
  2. Nhị thiền định
  3. Tam thiền định
  4. Tứ thiền định
  5. Không vô biên xứ định
  6. Thức vô biên xứ định
  7. Vô sở hữu xứ định
  8. Phi tưởng phi phi tưởng xứ định
Bát Định là gì?
Bát Định là gì?

Tám phép định trên vượt khỏi Cõi Dục Giới. Trong đó 4 phép đầu tiên thuộc Cõi Sắc Giới, bốn phép sau thuộc cõi Vô Sắc Giới, cho nên mới xuất hiện tên gọi chung là Tứ Thiền Bát Định.

Hành giả khi nhập định siêu quá bát định là tu tiếp diệt tận định, người này sẽ thoát ra khỏi Tam giới, không còn rơi vào vòng luân hồi nữa, mà sẽ đắc quả vị Thánh A La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát và Độc Giác Phật.

Tứ Thiền – Bát Định là công phu ép cho thân tâm được định. Do đó, nếu ai muốn học thiền hãy nên tìm hiểu kỹ về vấn đề này. Giác Ngộ Tâm Linh hy vọng bài viết trên đã giúp ích cho bạn.