Thiền sư Nhất Hạnh ở Trung Quốc được biết đến là một trong những nhà sư vĩ đại nhất. Không chỉ trong Phật Giáo, ông còn cống hiến hết mình cho nền khoa học của Trung Quốc. Hôm nay, Giác Ngộ Tâm Linh sẽ cùng bạn tìm hiểu về vị sư xuất chúng này nhé.
Nội Dung
1. Tiểu sử Thiền sư Nhất Hạnh
Thiền sư Nhất Hạnh là một nhà sư của Trung Quốc, ông sinh năm 683 và mất năm 727. Không chỉ được biết đến với vai trò là một Thiền Sư nổi tiếng của Mật Tông, ông còn là nhà thiên văn học nổi tiếng thời bấy giờ.
Tục danh của ông là Trương Toại vốn là người Xương Lạc, Ngụy Châu (ngày nay là huyện Nam Lạc, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).
Trong “Tống Cao Tăng Truyện” ghi rõ ông là cháu của Trương Công Cẩn – một vị công thần khai quốc thời sơ Đường, vốn là một gia tộc hiển hách. Ngay từ nhỏ, ông đã có tố chất thông minh, lanh lợi cộng thêm trí nhớ siêu phàm, đọc qua một lần là có thể ghi nhớ. Thông minh là thế, nhưng ông lại không màng con đường khoa cử, mà lại chỉ thích nghiên cứu khoa học. Khi mới 20 tuổi ông đã thông hiểu các điển tích nho giáo, lịch sử, thiên văn, âm dương ngũ hành và đạo gia.
Một lần, ông mượn được quyển Thái Huyền Kinh được trước tác bởi học giả Dương Hùng từ chỗ đạo sĩ Doãn Sùng – một vị tiền bối được người đời bấy giờ rất kính nể. Chỉ sau vài ngày, ông đã mang sách đến trả. Lúc này Doãn Hùng vô cùng ngạc nhiên, vì vốn dĩ quyển sách này có nội dung sâu xa, khó hiểu, đến ông ấy còn đọc nhiều lần vẫn chưa hiểu hết huyền cơ. Để chứng minh mình đã hiểu, Trương Toại bèn đưa cho ông ấy xem 2 tập “Đại Diễn Huyền Đồ” và “Nghĩa Quyết” mà bản thân đã viết để giải thích cho “Thái Huyền Kinh”. Doãn Sùng nghe vậy, bèn đàm đạo và hết lời khen ngợi, gọi ông là Nhan Hồi tái thế. Nhan Hồi là một trong những đệ tử giỏi của Khổng Tử.
Xem thêm: Xá lợi là gì?
Từ đó, tên tuổi của Trương Toại được biết đến nhiều hơn, vang xa khắp nơi. Thời đó, có một vị tể tướng tên là Võ Tam Tư, hắn ta là người chuyên quyền, muốn lôi kéo các danh sĩ trong thiên hạ nên muốn kết giao với Trương Toại. Tuy nhiên bản tính ông không thích quyền quý và coi thường tính cách của Võ Tam Tư, cho nên đã thẳng thắn từ chối. Để tránh rắc rối, ông đã xin xuất gia khi hơn 20 tuổi, nhận thiền sư Phổ Tịch làm thầy. Từ đó, ông có pháp danh là Nhất Hạnh.
Sau khi xuất gia, Nhất Hạnh cần mẫn tu học Phật pháp, nhưng cũng học thêm nhiều kiến thức về thiên văn và lịch pháp. Được thiền sư Phổ Tịch hết lời khen ngợi về tài trí và sự chăm chỉ của ông, cho phép ông đi nhiều nơi học hỏi. Trong “Tống Cao Tăng Truyện” cũng ghi rõ, ông từng đến chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, Chiết Giang cách xa ngàn dặm chỉ để theo một ẩn sĩ học về số học. Được vị cư sĩ ấy chân truyền, tiếng tăm của ông ngày một lan rộng.
Khi nhà Võ bị lật đổ, Đường Duệ Tông lên ngôi, từng sai Vi An Thạch – quan lưu thủ Đông Đô (nơi ngôi chùa ông đang tu học) chiêu mộ ông. Thiền Sư Nhất Hạnh vẫn không muốn dính đến chính trường, nên bèn lấy cớ bị bệnh để từ chối. Sau đó, ông cũng đi khỏi Tung Sơn, một mạch đi bộ đến núi Đan Dương ở Hồ Bắc để theo học giới luật với Sa Môn Ngộ Chân.
Năm 717, Đường Huyền Tông cũng vì mến mộ tài năng của ông, nên phái chú họ của Nhất Hạnh là Trương Hợp – hiện đang là Lang Trung Lễ Bộ đến Đan Dương, Hồ Bắc để thỉnh Nhất Hạnh về kinh. Không thể cự tuyệt được người chú này, nên ông về kinh. Mục đích của vua Đường lúc bấy giờ là muốn sư giúp chỉnh lại lịch pháp. Vua ban cho ông ở tại Điện Quang Đại trong cung vua, để thỉnh thoảng sang hỏi han chuyện trị nước. Chính vì những hiểu biết của mình, cùng sự thẳng thắn can gián nhà vua, ông được rất nhiều người khâm phục.
Theo “Đường Thư”, năm 721 Thiền sư Nhất Hạnh bắt đầu khởi thảo Đại Diễn lịch, nhưng mãi đến 6-7 năm (tức năm 727) mới hoàn thành. Khoảng thời gian này ông quên ăn quên ngủ, miệt mài ngày đêm, lao tâm khổ trí, nên qua đời sớm do quá sức. Đường Huyền Tông để tưởng nhớ nên đích thân viết văn bia cho ông, còn xuất ngân khố 50 vạn để làm tượng đồng đặt trước mộ và ban danh diệu Đại Tuệ Thiền Sư.
2. Những thành tựu của Thiền sư Nhất Hạnh
Thiền sư Nhất Hạnh là một nhà sư đã đóng góp rất nhiều không chỉ cho nền Phật Giáo, mà còn cho khoa học, thiên văn học, đến nỗi quá lao lực mà qua đời.
2.1. Thành tựu trong khoa học
Nhất Hạnh có 3 tác phẩm lớn nhất, đem lại sự cống hiến vĩ đại cho khoa học chính là Khai Nguyên Diễn Lịch Kinh, Hoàng Đạo Du Nghi và Phúc Củ Đồ.
Lúc bấy giờ, Nhà Đừng dùng “Lân Đức Lịch”, nhưng lịch này lại có nhiều sai khác, nên cần phải sửa chữa Ông nhận thấy muốn làm lịch mới thì phải tìm được cơ sở lập luận từ thiên tượng, cần có các dụng cụ đo lường và quan trắc thiên văn. Sư soạn ra quyển Khai Nguyên diễn lịch kinh rất chi tiết và đa dạng, được sắp xếp theo ngày sóc, ngày vọng, tiết khí 72 hậu, quỹ đạo chuyển động của mặt trăng và mặt trời.
Theo “Tân Đường Thư – Thiên Văn Chí” ghi chép, năm Khai Nguyên thứ 11 (723), Nhất Hạnh và Lương Lệnh Toản – một người thống lĩnh quân đội, cho đúc một loại thiết bị bằng đồng và sắt có thể đo được sự vận hành của các chòm sao và quan sát được sự chuyển động của mặt trăng. Kết quả đo đã chứng minh được các chòm sao quả thật có xê dịch, đồng thời họ cũng vẽ ra 36 bức đồ hình thiên văn, được vua Huyền Tông hết lời khen ngợi.
Thời bấy giờ có một công cụ tên là Hỗn Thiên Nghi dùng để nghiên cứu thiên văn của Trung Quốc, được chế tác vào đời Vũ Đế, từng được chỉnh sửa bằng thủy lực nhưng chưa chính xác hoàn toàn. Hai ông lại tiếp tục chỉnh sửa, công cụ này mới thực sự hoàn chỉnh. “Cựu Đường Thư – Thiên Văn Chí” có miêu tả chi tiết về sự vi diệu trong cấu tạo và vận hành của Hỗn Thiên Nghi do Nhất Hạnh chế tác.
Qua cách đo, tính toán Đại Diễn Lịch thì Nhất Hạnh là người đầu tiên trên thế giới tính ra được độ dài của một độ kinh tuyến, trước hơn 90 năm so với tuyến Tý Ngọ do vua Al Marmoom đo vào năm 814.
Khi “Đại Diễn Lịch” được công bố, Thái sử lệnh dùng linh đài để kiểm chứng, chứng minh được việc này đúng đến 7-8 phần. Từ thời Thái Sơ đến Lân Đức có đến 23 người làm lịch, nhưng chưa được chính xác; phải đến Nhất Hạnh mới được cải thiện.
Điều đáng tiếc là đa phần các phẩm trong “Đại Diễn Lịch” của Thiền sư Nhất Hạnh đã bị thất lạc, mà tác phẩm mượn danh của Nhất Hạnh lại rất nhiều, nên không thể kiểm chứng. Nhưng có một sự thật là những cống hiến vĩ đại của Nhất Hạnh đối với nền khoa học mãi được lưu danh sử sách.
2.2. Thành tựu trong Phật Giáo
Thời nhà Đường có rất nhiều pháp môn Phật Giáo. Ban đầu, khi ở Tung Sơn Nhất Hạnh tu theo Thiền Tông, đến Thiên Thai thì theo học Thiên Thai Tông. Khi đến chùa Tây Ninh với cao Tăng Vô Thiện Úy thì ông học Mật Tông. Về sau ông cũng sáng lập ra Mật Tông ở Trung Quốc.
Các tác phẩm nổi tiếng của Nhất Hạnh về Phật Giáo gồm:
– 10 quyển “Nhiếp Điều Phục Tạng”.
– 1 quyển “Thất Diệu Tinh Thần Biệt Hành Pháp”.
– 1 quyển “Thích Thị Hệ Lục”.
– 1 quyển “Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Tiêu Tai Trừ Nan Niệm Tụng Nghi Quỹ”.
– 1 quyển “Bắc Đẩu Thất Tinh Hộ Ma Pháp”.
– 1 quyển “Túc Diêu Nghi Quỹ”.
– 1 quyển “Đại Tì Lô Giá Na Phật Nhãn Tu Hành Nghi Quỹ”.
– 1 quyển “Mạn Thù Thất Lợi Diễm Mạn Đức Ca Vạn Ái Mật Thuật Như Ý Pháp”.
Sự cống hiến của Thiền sư Nhất Hạnh không chỉ đem lại giá trị cho Phật Giáo, mà còn cho sự phát triển khoa học của thế giới. Đây thật sự là một nhà sư tài năng, mà Giác Ngộ Tâm Linh vô cùng mến mộ, kính trọng. Cảm ơn các bạn đã cùng chúng tôi tìm hiểu về vị sư này.