Đại sư An Thế Cao tự là Thế Cao, ông là một vị cao tăng chuyên phiên dịch từ Tây vực đến Trung Quốc thời kỳ hậu Hán. Đây cũng là một nhân vật lịch sử quan trọng. Hôm nay mời các bạn theo chân Giác Ngộ Tâm Linh tìm hiểu chi tiết về vị cao tăng này nhé.
1. Xuất thân của Đại sư An Thế Cao
Đại sư An Thế Cao (148 – 180 CN), tên tiếng Anh là An Shigao. Ngài vốn là thái tử của nước An Tức. Từ nhỏ ông đã được biết đến là người có lòng hiếu thảo, lại thông minh, có chí cầu học; tinh thông nhiều ngôn ngữ. Cụ thể, Ngài thông thạo hơn ba mươi sinh ngữ, cũng có biệt tài nghe hiểu được tiếng chim thú.
Theo sự tích kể lại một lần, Thế Cao cùng các bạn đi trên đường thì nghe tiếng kêu ríu rít của một đàn chim én. Ông liền nói với bạn bè của mình: “Chúng bảo nhau sắp có người đem thức ăn đến”. Quả nhiên đúng như vậy! Mọi người ai cũng ngạc nhiên. Về sau, nhờ câu chuyện ấy Ngài càng nổi tiếng khắp nơi.
Thế Cao tuy ở trong cung điện nguy nga mà ông lại giữ giới vô cùng nghiêm tịnh. Sau khi vua cha mất, lẽ ra Ngài sẽ nối ngôi, nhưng vì nhìn thấu lẽ vô thường cho nên sau khi mãn tang cha, ông đã nhường ngôi lại cho chú mình, còn mình xuất gia, đi khắp nơi học đạo.
Với tài đức, trí tuệ sẵn có, rất nhanh Ngài đã thông đạt Tam Tạng, sở trường về A Tỳ Đàm và thiền quán đạt đến mức nhập diệu. Sau đó, Thế Cao đi qua Tây Vực để hoằng hóa vào niên hiệu Kiến Hòa thứ 2 đời Đông Hán Hoàn Đế (148), sau đó lại đến Lạc Dương – Trung Quốc. Chẳng bao lâu sau ông đã thông thạo tiếng Hoa và tham gia dịch thuật hơn hai mươi năm (đến niên hiệu Kiến Ninh thứ 3 đời Hán Linh Đế – 170). Thời kỳ đó là giai đoạn đầu của Phật Giáo Trung Hoa ít có người thông thạo cả tiếng Phạn và Tiếng Hoa nên quá trình dịch thuật tài liệu rất khó khăn và dẫn đến nhầm lẫn.
An Thế Cao vốn là người Tây Vực, lại thông thạo thêm cả tiếng Hoa, nên ông dịch Kinh rất chính xác. Những kinh điển Ngài dịch không chỉ nghĩa lý rõ ràng, dùng từ xác đáng, lời không chân phương, dễ hiểu mà văn chất lại chẳng quê mùa chút nào. Nhờ thế mà ai đọc cũng say mê không biết chán. Ngài được xem là nhà dịch thuật đứng đầu thời đó, cũng là người đặt nền móng cho Phật giáo Trung Quốc. Ngài đã dịch thuật nhiều kinh điển nổi tiếng như: Thập Nhị Nhân Duyên, Chuyển Pháp Luân, An Ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập, Bát Chánh Đạo, Thiền Hành Pháp Tưởng, A Tỳ Đàm, Ngũ Pháp Tứ Đế, Tu Hành Đạo,… Theo Tam Tạng Ký Ngài đã dịch khoảng 34 bộ, 40 quyển, tuy nhiên còn nhiều thuyết khác, như Cao Tăng Truyện lại cho rằng Ngài dịch 39 bộ.
Xem thêm: Xá lợi là gì?
2. Sự tích về Đại sư An Thế Cao
An Thế Cao biết rõ nghiệp duyên của mình. Dân gian lưu truyền rất nhiều câu chuyện thần dị về cuộc đời của Ngài. Thế Cao từng kể lại rằng tiền thân của mình là một người xuất gia, ông ở với một người bạn đồng tu. Người này ưa thích bố thí, cúng dường nhưng tính tình lại hay sân hận. Khi đi khất thực, nếu vị thí chủ nào trái ý ông thì ông liền nổi giận. Dù Thế Cao đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông ấy không thay đổi. Cứ như thế hơn 20 năm, một hôm Ngài từ biệt người bạn ấy ra đi, nói rằng:
– Tôi đi Quảng Châu để trả cho hết túc nghiệp. Ông tinh tấn, thông đạt Kinh điển chẳng kém gì tôi, nhưng tánh còn nhiều sân hận. Sau khi mạng chung, e rằng ông phải bị đọa, mang thân hình xấu xa đáng sợ. Nếu tôi đắc đạo sẽ đến độ ông.
Thế Cao đến Quảng Châu, không may gặp phải cảnh giặc cướp hoành hành, loạn lạc khắp nơi. Trên đường đi, Ngài gặp một thiếu niên, hắn rút dao ra nói: “Ta tìm gặp được ngươi rồi!”
Lúc này, Ngài chỉ mỉm cười mà nói: “Ta vì đời trước mắc nợ mạng của ông, nên từ xa đến đây để trả. Ông sở dĩ gặp ta liền nổi sân, là do có lòng hờn giận từ đời trước.”
Nói xong, không chút sợ hãi Ngài ung dung đưa cổ cho hắn ta chém! Lúc ấy, người xem rất đông, ai ai cũng khiếp sợ.
Sau đó, thần thức của ông thác sinh lại làm vương tử nước An Tức, chính là An Thế Cao ở hiện đời. Khi du phương đến Trung Quốc, Ngài bèn chấn tích đi đến Giang Nam. Ông nói rằng: “Tôi sẽ đến Giang Nam để độ người bạn đồng tu xưa”.
Khi thuyền đi đến hồ Cung Đình, ở đây có một miếu thờ thần vô cùng linh thiêng, nổi tiếng. Các thương khách thường ghé lại cúng lễ, cho đi đường xuôi buồm thuận gió. Kể về miếu thờ này, người ta kể lại trước đây có người đến trộm trúc trồng ở quanh miếu, và dùng thuyền chở đi, nhưng thuyền vừa đã bị lật chìm, trúc trôi trở lại nơi cũ. Từ đó không ai dám động phạm đến miếu nữa.
Lúc này, An Thế Cao cùng hơn 30 người khách đồng thuyền đi ngang qua, trong số đó có một vài người đại diện cho thuyền mang lễ vật lên miếu cúng tế để cầu bình an. Thần miếu liền hiển linh bảo rằng: “Trong thuyền có Sa môn, xin mời lên đây! Mọi người đều kinh ngạc, vội mời An Thế Cao lên miếu”.
Khi An Thế Cao vào miếu, thần liền bảo:
– “Thuở xưa tôi cùng Ngài xuất gia học đạo. Tôi thích bố thí mà tánh lại hay sân hận nên phải bị đọa làm thần giữ miếu ở hồ Cung Đình, cai quản chu vi cả ngàn dặm. Tôi nhờ phước bố thí nên tài vật dồi dào, song do sân hận phải bị đọa làm thần giữ miếu. Nay gặp lại bạn tu xưa thật vui buồn lẫn lộn, khôn xiết bùi ngùi. Thọ mạng tôi chẳng còn bao lâu. Thân hình to lớn xấu ác của tôi nếu chết ở đây e rằng sẽ làm ô uế sông hồ, nên định dời sang đầm Sơn Tây. Tôi chết đi sợ sẽ đọa vào địa ngục. Tôi có ngàn xấp lụa và các thứ bảo vật, xin Ngài nhận lấy để xây chùa tháp, cầu siêu độ cho tôi.
An Thế Cao nói:
– Tôi đến đây là cốt để độ ông. Sao ông không hiện ra cho thấy nguyên hình?
Thần đáp:
– Thân tôi quá xấu xa đáng sợ, e rằng khiến mọi người kinh hãi.
Thế Cao bảo:
– Xin chỉ hiện một phần nào mà mọi người trông thấy không kinh sợ.
Từ phía sau, Thần liền giương đầu lên, hóa ra ông chính là con mãng xà lớn, đầu cao đến gối. Ngài An Thế Cao liền tụng Kinh tiếng Phạn cho nó nghe. Nghe xong, mãng xà buồn bã, rơi lệ rồi liền ẩn mất.
Sau đó, Thế Cao liền thu nhận những đồ vật trong miếu rồi đưa xuống thuyền. Khi đến Dự Chương, Ngài đem những đồ vật ấy cúng dường để xây cất chùa Đông Tự.
Lúc Thế Cao đi rồi, cũng là lúc thần mạng chung. Tối hôm ấy, mọi người thấy một thiếu niên đến quỳ trước An Thế Cao nhận lời chú nguyện, rồi biến mất. An Thế Cao bèn nói với những người chung thuyền khác rằng:
– “Thiếu niên đó chính là vị thần ở ngôi miếu tại hồ Cung Đình, nay đã thoát được thân xấu ác”
Từ đó trở đi, miếu cũng hết linh thiêng. Sau này người dân ở đó thấy xác một con mãng xà rất lớn ở đầm Sơn Tây, dài đến mấy dặm! Nơi đây cũng đổi tên thành Xà thôn (làng Rắn) ở huyện Tầm Dương.
Sau đó, Đại sư An Thế Cao tiếp tục đi Quảng Châu, tìm đến nhà vị đời trước đã giết mình. Vị kia nay vẫn còn, nhưng cũng đã trở thành ông lão tóc bạc. Thế Cao gặp vị đó, liền nói lại chuyện trả nợ mạng xưa kia của mình và kể rõ nhân duyên đời trước, rồi hoan hỷ bảo: Ta nay vẫn còn chút dư báo, nên phải đi Cối Kê để trả cho xong!
Vị đó nghe xong liền nhận ra Thế Cao là bậc phi phàm, ông ta cũng tỉnh ngộ, ăn năn tội lỗi trước kia của mình. Vị này về sau rất cung kính An Thế Cao và tình nguyện đi theo Ngài đến Cối Kê. Khi đến nơi chợ, cũng là dịp có loạn, người ta đánh nhầm trúng đầu Thế Cao, Ông liền qua đời. Ông lão ở Quảng Châu hai lần tận mắt chứng kiến việc trả báo của Ngài nên vô cùng tin sợ nhân quả, tinh tấn tu tập, cũng kể lại đầu đuôi câu chuyện này cho nhiều người biết. Xa gần hay biết, ai ai cũng thương tiếc cho vị cao tăng An Thế Cao
Giác Ngộ Tâm Linh tóm tắt cho bạn về cuộc đời cùng những câu chuyện về một nhân vật lịch sử quan trọng của Phật Giáo – Đại sư An Thế Cao. Thêm một minh chứng sống cho chúng ta thấy được sự tồn tại của luật nhân quả và sự nhiệm màu của Phật Giáo.