Ngũ Ấm Ma là gì? Tìm hiểu về Ngũ Ấm Ma trong Phật Giáo

Ngũ Ấm Ma là nội dung từng được Hòa Thượng Tuyên Hóa căn dặn Phật tử nên ít nhất một lần đọc để biết và hiểu về nó. Tuy nhiên thực tế ngày nay lại không nhiều người nghe hay tìm hiểu về vấn đề này. Để đi đúng theo chánh đạo, mời các bạn cùng Giác Ngộ Tâm Linh tìm hiểu chi tiết xem Ngũ Ấm Ma là gì nhé.

Ngũ Ấm Ma là gì? Tìm hiểu về Ngũ Ấm Ma trong Phật Giáo
Ngũ Ấm Ma là gì? Tìm hiểu về Ngũ Ấm Ma trong Phật Giáo

1. Ngũ Ấm Ma là gì?

Ngũ là 5, ấm có nghĩa là che đậy, giấu đi. Ngũ Ấm Ma chính là 5 thứ tác động lên tâm chúng sinh, làm người đó không còn thanh tịnh, bao gồm: Sắc – Thọ -Tưởng – Hành – Thức. Mỗi ấm này sẽ được chia thành 10 loại ma, cho nên mới sinh ra 50 hiện tượng Ngũ Ấm Ma và 50 hiện tượng này bao gồm: 

1.1. 10 loại ma sinh ra từ Sắc ấm

Sắc ấm tức là vật chất hữu hạn của chúng ta. Ta có thân xác này là do cha mẹ sinh ra. Do đó mỗi chúng ta đều chịu sự ảnh hưởng của gia đình, tổ tiên. Nếu gia đình có truyền thống đức hạnh tốt đẹp thì chúng ta cũng được hưởng ít nhiều sự tốt lành, ngược lại nếu gia đình nhiều tội lỗi thì thân ta cũng gánh chịu những nghiệp ấy. Thân này sinh ra cũng đã chịu ràng buộc. 10 loại ma sinh ra từ Sắc ấm lần lượt là:

  1. Thân thể không bị chướng ngại
  2. Lượm bỏ trùng độc trong thân
  3. Nghe trong hư không có tiếng nói Pháp
  4. Thấy Phật hiện và thấy hoa sen nở – Đây chỉ cảnh tạm không phải chứng Thánh, nếu cho rằng mình là Thánh cũng tức là bị ma cám dỗ.
  5. Thấy các vật báu đầy cả hư không
  6. Thấy ban đêm cũng như ban ngày
  7. Thân thể không biết đau
  8. Thấy cảnh giới Phật xuất hiện ở khắp nơi
  9. Nghe, thấy được ở phương xa vào ban đêm
  10. Thân hình biến hóa, nói Pháp thông suốt

1.2. 10 loại ma sinh ra từ Thọ ấm

Thọ là cảm xúc khổ, lạc (vui sướng), không khổ không lạc, 10 hiện tượng của Thọ ấm là:

  1. Thấy loài vật thương khóc một cách mê lầm nên bị ma sầu bi bám lấy khiến tâm mất chánh định.
  2. Chí dũng mãnh bằng Phật cũng là Thọ ấm trong Ngũ Ấm Ma: Người tu hành phát tâm đại dũng mãnh, lập tâm bằng với đức Phật, quyết tu một đời để thành Phật, không trải qua các kiếp số. Điều này dẫn tới sự cao ngạo, hống hách, ngã mạn.
  3. Tâm nghĩ tưởng khô khan.
  4. Đặng chút ít lại cho là đầy đủ.
  5. Tâm buồn rầu vô hạn
  6. Vui cười không thôi, không thể ngăn được
  7. Sanh đại ngã mạn
  8. Sanh tâm khinh an
  9. Chấp không – cho rằng mọi thứ đều không rồi sinh ra tâm lý chê bai người trì giới.
  10. Cuối cùng là vì quá tham ái nên sinh ra cuồng mê cũng là 1 trong 10 hiện tượng của Thọ ấm trong Ngũ Ấm Ma.

1.3. 10 loại ma sinh ra từ Tưởng ấm

Tưởng là những suy nghĩ, tư tưởng của mỗi người. 10 loại ma sinh ra từ tưởng ấm là:

  1. Tham cầu diệu dụng (cầu những việc kỳ diệu thành thực, linh nghiệm)
  2. Tham cầu du ngoạn
  3. Cầu ngộ chơn lý (Tự cho đã giác ngộ chân lý)
  4. Mong tâm muốn biết được nguồn gốc của muôn loài
  5. Tham cầu cảm ứng linh nghiệm
  6. Tham cầu được ở chỗ vắng vẻ, tịch mịch
  7. Tham cầu biết được kiếp trước của mình
  8. Tham cầu thần thông, biết hết, biết tất mọi sự trên đời
  9. Tham cầu không không 
  10. Cuối cùng là tham cầu sống lâu, trường thọ
Ngũ Ấm Ma là gì?
Ngũ Ấm Ma là gì?

1.4. 10 loại ma sinh ra từ Hành ấm

10 loại ma được sinh ra từ hành ấm chính là:

  1. Chấp không nhơn nguyên sanh: Cho rằng chúng sinh từ tám vạn kiếp trở lại tự nhiên có hoặc chúng sinh từ tám vạn kiếp đã thế, người sinh ra người, vật sinh ra vật,… tóm lại các vật tượng ngày nay đều không có nguyên nhân, chính là chấp không nhơn nguyên sanh.
  2. Bốn món chấp thường bao gồm: chấp hai vạn kiếp thường; chấp bốn vạn kiếp thường; chấp tám vạn kiếp thường và chấp cái không sanh diệt là thường.
  3. Chấp một phần thường, một phần vô thường.
  4. Chấp có 4 món biên giới gốm chấp ba đời; chấp chúng sanh; chấp tâm tánh và chấp sanh diệt. 
  5. Hiện tượng thứ 5 trong hành ấm thuộc Ngũ Ấm Ma chính là bốn món nghị luận rối loạn không có nhất định bao gồm chấp 8 món “cũng”; chấp duy cái “không”; chấp duy cái “có” và chấp “cũng có” và “cũng không”.
  6. Chấp 16 tướng có bao gồm 4 chấp về sắc uẩn, 4 chấp về Thọ, 4 chấp về tưởng và 4 điều chấp về hành.
  7. Chấp 8 món vô tướng.
  8. Chấp 8 món cu phi .
  9. Chấp 5 món đoạn diệt.
  10. Chấp 5 món Niết Bàn hiện tại.

1.5. 10 loại ma sinh ra từ Thức ấm

10 hiện tượng thuộc Thức ấm trong Ngũ Ấm Ma đươc nhắc đến là:

  1. Chấp minh đế
  2. Chấp nhơn sanh
  3. Chấp nhơn thường
  4. Chấp cây cỏ cũng đều biết
  5. Chấp tứ đại hóa sanh
  6. Chấp hư vô
  7. Tham cảnh luyến dục
  8. Tham cầu sống lâu, trường thọ
  9. Định tánh thinh – văn
  10. Định tánh duyên – giác

2. Hòa Thượng Tuyên Hóa nói về Ngũ Ma Ấm

Kinh Pháp Diệt Tận đức Phật bảo: “Khi pháp diệt, kinh Lăng Nghiêm là bộ kinh bị biến mất đầu tiên và bản kinh cuối cùng biến mất trên thế gian là Kinh A Di Đà.” Vậy thì biết kinh Lăng Nghiêm có ý nghĩa sống còn như thế nào đối với Chánh Pháp. Ngài Tuyên Hóa cũng xác nhận rằng: “Lăng Nghiêm là một trong những bản kinh quan trọng bậc nhất của Phật pháp”.

Tại sao thế? Bởi ngoài những điều quan trọng cho người tu, Kinh Lăng Nghiêm còn nói đến một vấn đề vô cùng quan trọng: Ngũ Ấm Ma, tức 50 hiện tượng Ngũ Ấm Ma được sinh ra từ Ngũ ấm. Người tu chơi chơi thì chẳng nói làm gì, nhưng nếu chí tâm tu trì hướng đến giải thoát thì nhất định phải một lần đọc Ngũ Ấm Ma. Bởi nếu không đọc tất khi tâm tịch tĩnh, cảnh giới phát hiện, chắc chắn sẽ lạc vào ma cảnh!

50 hiện tượng Ngũ Ấm Ma là thử thách thuộc dạng vi tế đối với người học Phật. Chỉ những vị trì giới cực tinh nghiêm, có sức tu rất lớn mới chạm đến cảnh giới này. Chư tổ dạy: “Người học Phật thời nay thực ra tu đến cảnh giới tịch tĩnh hoặc thấy Cảnh giới là cùng. Cực hiếm người chạm đến cảnh giới Ngũ Ấm Ma, huống nữa là “phá ấm”.

ngu am ma la gi 1

Tuy vậy 50 hiện tượng Ngũ Ấm Ma người học Phật nhất định phải biết. Tại sao thế? Bởi người tu khi có chút thành tựu thường sanh tâm ngã mạn, tưởng vậy là đủ.

Chẳng biết rằng đường tu nhiều hiểm nạn chướng duyên. Nếu dừng lại nửa chừng tất vẫn y nguyên trong sanh tử luân hồi. Chẳng độ nổi mình thì vọng cầu chi độ được chúng sanh? Hoặc có kẻ không biết về Ngũ Ấm Ma, khi sức tu đã sâu chắc chắn bị ma ám nhập, rồi quay lại bài nhân bác quả; Bác luôn cả Phật pháp rồi rơi vào Vô gián địa ngục chẳng biết ngày ra. Ở Việt Nam ta, gần đây thôi, cũng có một số tấm gương điển hình… Thật vô cùng đau xót!

Tiên đức hằng răn nhắc: “Nếu tu mà không chuyên cầu giải thoát, thì sự tu nơi kiếp này là mối thù trong kiếp thứ ba.” Sở dĩ có việc ấy, bởi kiếp thứ nhứt lo kham khổ tu hành, nên chuyển sanh qua kiếp thứ nhì được hưởng quả báo thông minh giàu sang quyền thế. Trong kiếp thứ hai này, do giàu sang nên dễ mê theo cảnh quyền quý, vợ đẹp con xinh, cùng các thú vui vật chất nơi cõi trần. Đã nếm mùi dục lạc tất dễ sanh đắm nhiễm, càng đắm nhiễm càng đi đến chỗ sa đọa tối tăm, dám làm nhiều điều ác để củng cố lợi quyền và thỏa lòng tham vọng. Kiếp thứ nhì đã gieo nhân như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa lạc tam đồ? (HT. Thiền Tâm)

3. Đức Phật dạy về Ngũ Ấm Ma

Trong kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy: “Nay Ta đã thuyết pháp chơn tu, các ngươi còn chưa hiểu những ma sự vi tế; Cảnh ma hiện tiền, các ngươi cũng chẳng biết. Vì tâm chẳng chánh, lọt vào tà kiến, nên bị ma ngũ ấm, hoặc thiên ma, hoặc quỷ thần, hoặc yêu mị xâm nhập. Trong tâm chẳng biết, nhận giặc làm con. Những người nhị thừa, được ít lại cho là đủ. Như Tỳ Kheo Vô Văn, tu đến tứ thiền mà vọng nói đã chứng Thánh quả. Đến khi hết phước báo cõi Trời, đọa địa ngục A Tỳ. Nay các Ngươi hãy chú ý nghe:

– Các Ngươi phải biết: Cái tâm thể Bản Giác của mười phương chúng sanh vốn viên mãn Diệu Minh, cùng với mười phương chư Phật chẳng hai chẳng khác. Vì do vọng tưởng của các ngươi mê chấp đạo lý mới thành lỗi lầm. Từ đó sanh ra si ái, si ái sanh trưởng khắp nơi, nên có tánh hư không. Sự mê chấp tiến hóa không ngừng, nên sanh ra thế giới. Vậy thì mười phương vô số quốc độ đều do vọng tưởng kiến lập.

Phải biết: Hư không sanh khởi trong tâm các Ngươi như đám mây ở giữa hư không, huống là các thế giới đều ở trong hư không. Trong các Ngươi có một người kiến tánh, thì mười phương hư không đều tiêu diệt ngay, làm sao những quốc độ trong hư không chẳng bị tan nát!

– Các Ngươi tu thiền đến nơi chánh định, cũng như mười phương Bồ Tát và Đại A La Hán: Chơn tâm dung thông, ngay đó trạm nhiên. Khi ấy, tất cả ma vương và quỷ thần, thấy cung điện của mình khi không sụp đổ, đều cảm thấy kinh khủng. Họ đều được năm thứ thần thông (chỉ trừ ra Lậu Tận Thông), ham thích trần lao, đâu thể để cho người tu Chánh pháp làm sụp đổ xứ sở của họ.

Cho nên đang lúc người tu được chánh định, những thiên ma, yêu tinh, quỷ thần đều tụ lại để quấy phá. Nhưng họ ở trong trần lao, người tu ở trong Diệu Giác. Dù họ hung dữ cách mấy cũng hại chẳng được. Ví như gió thổi ánh sáng, hoặc dùng dao cắt nước, chẳng ăn nhằm gì. Họ như băng đá, người tu như nước nóng, nước nóng làm tan rã băng đá. Họ ỷ lại sức thần thông, nhưng chỉ là khách. Người tu là chủ, nếu chủ mê thì khách được thành tựu sự quấy phá của họ; Nếu người tu ngay đó giác ngộ chẳng mê, thì ma sự của họ chẳng làm gì được mình.

Đức Phật dạy về Ngũ Ấm Ma
Đức Phật dạy về Ngũ Ấm Ma

3.1. 10 loại Ma sanh ra từ Sắc ấm

– A Nan nên biết. Ngươi tọa đạo tràng, vọng niệm nếu hết thì ngay cái lìa niệm ấy tất cả sáng tỏ: Động tịnh chẳng dời, nhớ quên như một, nên trụ nơi này mà nhập chánh định. Như người mắt sáng ở chỗ đen tối, chơn tánh trong sạch, trong tâm chưa phát ánh sáng: Đây gọi là phạm vi của Sắc ấm. Nếu con mắt sáng tỏ, thì mười phương khai mở, chẳng còn đen tối, gọi là Sắc Ấm hết, thì người ấy được siêu việt Kiến Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là bởi Kiên cố vọng tưởng làm gốc.

3.2. 10 loại Ma sanh ra từ Thọ ấm

– A Nan! Người tu thiền định, khi dứt được Sắc ấm, tâm thấy chư Phật như bóng hiện trong gương. Dường như có sự chứng đắc, nhưng chưa được thọ dụng. Cũng như người bị bóng đè, tay chân vẫn còn, thấy nghe rõ ràng. Vì tâm bị tà bên ngoài xâm nhập, chẳng thể cử động được, ấy gọi là phạm vi của Thọ ấm. Nếu bóng đè hết tâm lìa sắc thân, được tự thấy mặt mình, ở đi tự do vô ngại, gọi là Thọ ấm hết; Thì lúc ấy được siêu việt Kiến Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là do Hư minh vọng tưởng làm gốc.

3.3. 10 loại Ma sanh ra từ Tưởng ấm

– A Nan! Người tu thiền định, khi dứt được thọ ấm, dù chưa dứt hết tập khí, nhưng tâm đã được rời khỏi thân thể; Như chim ra khỏi lồng, đã được thành tựu từ thân phàm trở lên; Trải qua 60 cấp bậc Thánh vị Bồ Tát, được “Ý sanh thân”, đi ở vô ngại. Ví như có người ngủ say nói mớ: Người ấy dù không hay biết gì, nhưng lời nói của họ đã làm cho người thức nghe biết. Ấy gọi là phạm vi của Tưởng ấm.

Nếu động niệm và vọng tưởng dứt trừ, trong tâm sáng tỏ như gương sạch hết nhơ bụi; Được sự chiếu soi, chẳng thấy có tướng sanh tử. Gọi là tưởng ấm hết, thì lúc ấy được siêu việt Phiền Não Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là do bởi Dung thông vọng tưởng làm gốc.

3.4. 10 loại Ma sanh ra từ Hành ấm

– A Nan! Người tu thiền định, khi dứt được Tưởng Ấm, những mộng tưởng bình thường tiêu sạch; Thức, ngủ thường như một, chẳng còn đuổi theo cảnh trần; Cái giác minh vắng lặng như hư không, thấy các núi sông, đất đai của thế gian như bóng hiện trong gương, tùy duyên chiếu soi; Ở đi đều chẳng dính mắc; Biết hết các tập khí xưa, cái nguồn gốc của sanh diệt từ đây được hiển lộ; Thấy khắp 12 loại chúng sanh trong mười phương; Dù chưa thông suốt manh mối của từng loại, nhưng đều từ một nguồn gốc phát sanh ra, giống như bụi trần lăng xăng. Ấy là chỗ căn cứ địa của ngũ căn, đây gọi là phạm vi của Hành Ấm.

Nhưng tánh của Hành Ấm vốn chẳng lăng xăng. Sở dĩ lưu chuyển chẳng ngừng là do tập khí của nhiều kiếp. Nếu tánh ấy trở về vắng lặng, tập khí dứt sạch, tướng lưu chuyển hết; Như làn sóng lặng trở về nước yên, gọi là Hành Ấm hết, thì lúc ấy được siêu việt Chúng Sanh Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là do bởi Uẩn vọng tưởng làm gốc. (Hành Ấm lưu chuyển vi tế, động mà chẳng động nên gọi là Uẩn)

10 loại Ma sanh ra từ Hành ấm
10 loại Ma sanh ra từ Hành ấm

3.5. 10 loại Ma sanh ra từ Thức ấm

– A Nan! Người tu thiền định, khi dứt được Hành ấm, các tính sanh diệt lăng xăng chuyển động của thế gian bỗng được tan rã, các nghiệp báo luân hồi, sự cảm ứng vi tế như chỉ tơ gần được đoạn dứt, sắp được minh ngộ nơi cõi Niết Bàn, như gà gáy lần chót, trời bắt đầu rạng đông. Lục căn hư tịnh, chẳng còn rong ruổi cảnh trần, trong ngoài trạm nhiên sáng suốt, cho đến nhập vô sở nhập:

Thấu suốt cội gốc thọ mạng của 12 loại chúng sanh trong mười phương, chấp vào cái cội gốc đó, các loài chẳng đến với nhau, mà ở nơi mười phương đều đồng một cội gốc, sự phát hiện chỗ ẩn bí đó, như trời gần sáng mà chưa sáng, rạng đông kéo dài, đây gọi là phạm vi của Thức ấm. Nếu ở chỗ đồng ấy, nhờ sức thiền định mài giũa lục căn, đến thấy nghe thông nhau, sự dụng của lục căn muốn hợp lại hay tách ra đều được tự do thành tựu, trong ngoài sáng suốt như lưu ly, gọi là thức ấm hết, thì lúc ấy được siêu việt Mệnh Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là do bởi “Võng tượng” (mường tượng), Hư vô, Điên đảo vọng tưởng làm gốc.

3.6. Bản nhân Ngũ Ấm Ma là vọng tưởng

– A Nan nghe Phật dạy bảo, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ chẳng sót, lại bạch Phật rằng:

– Như lời Phật dạy, trong tướng Ngũ Ấm, năm thứ hư vọng vốn là Bản Tâm, chúng con bình thường chưa được Như Lai khai thị tỷ mỉ như thế. Lại Ngũ Ấm này là tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà diệt trừ? Năm lớp này đến đâu là bờ bến? Xin Như Lai phát lòng đại từ, khiến tâm và mắt của đại chúng được trong sáng, và làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong đời mạt pháp.

Bản nhân Ngũ Ấm Ma là vọng tưởng
Bản nhân Ngũ Ấm Ma là vọng tưởng

Phật bảo A Nan:

– Diệu tâm sáng tỏ, bổn giác trong sạch, vốn chẳng có sanh tử và những trần cấu. Tất cả chúng sanh, cho đến hư không, đều do vọng tưởng mà sanh khởi. Cái bổn giác vốn sáng tỏ trong sạch này, vọng sanh các tướng thế gian, như Diễn Nhã Đạt Đa mê đầu nhận bóng. Vọng vốn chẳng nhân, lại nơi vọng tưởng lập tánh nhân duyên. Kẻ mê nhân duyên cho là tự nhiên, thật ra, tánh hư không còn là huyễn hóa. Nhân duyên và tự nhiên đều do vọng tâm của chúng sanh tạo thành. A Nan, biết chỗ vọng khởi, thì nói vọng duyên, nếu vọng vốn không, thì các vọng nhân duyên vốn chẳng thể có, huống là chẳng biết lại cho là tự nhiên. Vì thế, Như Lai phát minh: Bản nhân của Ngũ Ấm đều là vọng tưởng.

– Thân Ngươi trước tiên, do niệm tưởng của cha mẹ sanh ra, tâm Ngươi nếu chẳng có niệm tưởng thì chẳng thể đến hợp với tưởng của cha mẹ mà thọ sanh. Như trước Ta đã nói, tưởng tượng vị chua thì tiết ra nước miếng, tưởng tượng leo dốc thì lòng bàn chân ghê rợn, dốc cao chẳng có, vật chua chưa đến, thân Ngươi nếu chẳng cùng loại với hư vọng thì làm sao nghe nói chua lại tiết ra nước miếng? Nên biết sắc thân hiện tiền của Ngươi, gọi là “Kiên cố vọng tưởng thứ nhất”.

– Như trên đã nói, tưởng tượng leo dốc thì khiến thân thật chịu ghê rợn; Vì cái nhân niệm tưởng cảm thọ, lay động sắc thân, nay trước mắt Ngươi ham thuận chán nghịch, hai hiện tượng này giao tranh với nhau, gọi là “Hư minh vọng tưởng thứ hai”.

– Bởi do niệm tưởng sai khiến sắc thân; Nếu sắc thân với niệm tưởng chẳng cùng loại, thì tại sao thân Ngươi lại theo niệm tưởng sai khiến? Đủ thứ hiện tượng tương ưng với niệm tưởng, hễ tâm sanh thì thân nhận, lúc thức là niệm tưởng, lúc ngủ thành chiêm bao. Vậy thì niệm tưởng của Ngươi lay động vọng tình, gọi là “Dung thông vọng tưởng thứ ba”.

– Lý tạo hóa chẳng ngừng, âm thầm dời đổi, móng dài, tóc mọc, sức mòn, hình nhăn, ngày đêm thay đổi mà không hề hay biết. A Nan, ấy nếu chẳng phải là Ngươi thì tại sao thân Ngươi lại dời đổi? Nếu ắt phải là Ngươi thì sao Ngươi lại chẳng hay biết? Vậy thì, hành ấm của Ngươi niệm niệm chẳng ngừng, gọi là “U ẩn vọng tưởng thứ tư”.

– Lại, chỗ tánh thức trong lặng chẳng lay động của ngươi, cho là thường còn ấy, ở nơi thân Ngươi chẳng ra ngoài Kiến, Văn, Giác, Tri, nếu cho là chơn thật, thì chẳng thể huân tập sự vọng, tại sao các Ngươi đã từng xem một vật lạ từ năm xưa, trải qua nhiều năm, nhớ quên chẳng còn; Về sau bỗng thấy vật lạ đó, thì nhớ lại rõ ràng, chưa từng lạc mất?

– Vậy nơi tánh thức trong lặng chẳng lay động này, đâu có suy tính, mà niệm niệm chịu sự huân tập! A Nan nên biết, tánh trong lặng này chẳng thật, như dòng nước chảy gấp, trông như tịch lặng, ấy là vì chảy gấp mà chẳng thấy, chứ chẳng phải không chảy; nếu chẳng phải là cội gốc của niệm tưởng, thì đâu thể huân tập sự vọng? Nếu lục căn chưa được hỗ dụng tự tại, thì vọng tưởng này chẳng bao giờ diệt trừ được.

– Vậy nên hiện nay cái Kiến, Văn, Giác, Tri của Ngươi, hòa hợp với tập khí vi tế, thành mường tượng hư vô nơi tánh Trạm Liễu, gọi là tướng vi tế của “Điên đảo vọng tưởng thứ năm”.

– A Nan! Ngũ ấm này do năm thứ vọng tưởng kể trên mà thành. Nay Ngươi muốn biết bờ bến sâu cạn, thì Sắc với Không là bờ bến của Sắc Ấm; Xúc với Lìa là bờ bến của Thọ Ấm; Nhớ với Quên là bờ bến của Tưởng Ấm, Diệt với Sanh là bờ bến của Hành Ấm; Trạm nhập hợp Trạm, là bờ bến của Thức Ấm.

Ngũ Ấm Ma là vấn đề sâu sắc mà bất kỳ ai đi tìm sự giải thoát cũng cần hiểu rõ, nhưng thật khó để hiểu chi tiết về Ngũ Ấm Ma qua bài viết ngắn này. Nếu quý Phật Tử vẫn muốn biết thêm về vấn đề này, các bạn có thể tìm đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm. Giác Ngộ Tâm Linh chúc các bạn đồng tu ngày một tinh tấn.